Thứ Hai, 10 tháng 10, 2016

Kinh tế cá nhân bị cản trở vì đâu?

(Diễn đàn trí thức) - Năng lực điều hành hạn chế giễu của đơn vị và bất đồng đẳng, sợ chệch hướng XHCN của hệ thống điều hành khiến cho KTTN nhốt.

Theo NGƯT.GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn (Trường Đại học Kinh tế quốc dân), kinh tế cá nhân (KTTN) bị giam cầm bởi hạn giễu cợt về năng lực điều hành điều hành và sự bất cập của quản lý nhà nước trong tạo điều kiện cho phát triển.

Xem xét một cách tổng quát, vai trò động lực phát triển kinh tế - phường hội của KTTN bộc lộ trên những mặt chủ công ở việc trực tiếp sản xuất khối lượng tài sản vật chất hoành tráng phục vụ yêu cầu nội địa, góp phần ngày càng tăng kim ngạch xuất khẩu và đóng góp vào sự lớn mạnh chung của nền kinh tế.

Tổ chức tư nhân là hàng ngũ căn bản tạo việc làm cho người công huân và góp phần giải quyết các điều thị trấn hội trong giai đoạn tạo ra; đóng góp phần cần thiết tham gia thu ngân sách nhà nước và tác động đến việc điều chỉnh phân bổ các nguồn lực theo đòi hỏi bảo đảm hiệu quả kinh tế - thị trấn hội.

KTTN tạo áp lực xúc tiến đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế và xúc tiến canh tân chuỗi hệ thống doanh nghiệp nhà nước.

Kinh te tu nhan bi can tro vi dau?
Diễn đài công nghệ về KTTN tại LHH VN. Ảnh: Tri thức & Phát hành

Trong thực tiễn lịch sử, giai đoạn phát hành kiếm được thức về vai trò động lực của KTTN trước khi chấp hành công cuộc Đổi mới (trước 1986) là gắn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất được coi là phòng ban kinh tế “phi phố hội chủ nghĩa” và là đối tượng của “cải tạo phố hội chủ nghĩa”.

Đến Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) thừa nhận KTTN là một yếu tố trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và đòi hỏi “cần có chế độ sử dụng và làm mới chính xác với các phòng ban của thành phần kinh tế này”.

Tại Đại hội Đảng lần thứ X (2006) xác định “KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”.
 
Đại hội Đảng lần thứ XII (2016) xác định “…KTTN là một động lực cần thiết của nền kinh tế…”.

Theo đó, trong cả một thời kỳ dài gần 30 năm kể từ khi chấp hành công cuộc làm mới phố hội chủ nghĩa (1958), KTTN bị coi là đối chọi với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tới khi chấp hành công cuộc đổi mới (1986), KTTN mới được thừa nhận là một bộ phận phù hợp thành nền kinh tế trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa phường hội, nhưng vẫn với tư duy “vừa sử dụng, vừa cải tạo”.

Sau 20 năm tiến hành công cuộc thay đổi, đến năm 2006, kinh tế tư nhân mới được xác định là một động lực tạo ra. Đến 10 năm sau (2016), vai trò của KTTN được nâng lên là “động lực cần thiết của nền kinh tế”. Vấn đề đó được coi là một bước tiến trong nhận thức. Nhưng bước tiến này mất khoảng thời điểm khá dài với hệ lụy là nguồn lực hoành tráng nội địa không được huy động dịch vụ công cuộc tạo ra kinh tế - phố hội.

GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn nghĩ là, từ khi được công nhận là một yếu tố trong cơ cấu kinh tế đa dạng nhân tố, sự phát hành mạnh bạo và liên tục của KTTN đã vận động được nguồn lực vốn đầu tư to lớn nội địa tham gia đầu tư phát triển, tạo thêm phổ biến việc làm mới, đóng góp ngày càng lớn vào sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia…

Nhị yếu tố giam giữ KTTN

Đương nhiên, vai trò của KTTN chưa được phát huy toàn vẹn do 2 nhân tố căn bản ngăn cản trong khoảng chính bản thân kinh tế tư nhân và trong khoảng bất cập trong quản lý nhà nước với KTTN.

Thứ nhất, cản trở trong khoảng bản thân KTTN

Nội lực là nhân tố cơ bản bảo đảm sự phát triển mạnh, có hiệu quả và bền vững của bản thân các tổ chức thuộc yếu tố KTTN và phát huy vai trò động lực thúc đẩy sản xuất nền kinh tế non sông. Dĩ nhiên, nội lực của KTTN nước ta còn thấp kém đang là một trong những cản trở lớn với việc phát huy vai trò của thành phần kinh tế này.

Các loại hình đơn vị thuộc KTTN ở nước ta hiện thời chủ yếu có diện tích vừa và tí hon, khác biệt là các đơn vị “siêu gầy” với sự hạn nhạo báng về nguồn lực vốn đầu tư, vũ trang công nghệ và khả năng đổi mới, thông minh.

Kinh te tu nhan bi can tro vi dau?
Công ty "Siêu bé xíu" cực nhiều.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2014, trong tổng số 402.326 đơn vị có 388.232 công ty ngoài nhà nước (nội địa), chiếm đoạt đến 96,5%. Trong số này, 210.882 đơn vị có diện tích vốn dưới 5 tỉ đồng, chiếm đoạt tới 52,42% tổng số tổ chức, chỉ có 5.161 công ty có diện tích vốn trên 200 tỉ đồng, chiếm đoạt 1,28%. Xét theo quy mô công lao, số lượng đơn vị ngoài nhà nước (nội địa) dùng dưới 9 công huân là 298.903 đơn vị, chiếm giữ 66,84%, số doanh nghiệp sử dụng trong khoảng 200 công lao trở lên là 4.614 tổ chức, chiếm hữu 1,15%.


Xem tại: váy ngủ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét